Gia Đình Khỏe AZ

Quan niệm của Đông y về ngoại khoa

Tại Trung Quốc, từ đời nhà Chu (770 trước Công nguyên) đã có chế độ dùng thầy thuốc Dương y để trị các bệnh ngoại khoa như thủng dương, hội dương, kim dương, chiết dương… Đời nhà Hán (khoảng năm thứ 9 ~ 23 trước Công nguyên), Vương Mãng giết đồ đệ là Địch Nghĩa rồi sai Thái y Thương Phương…

 Hoa Đà - ông tổ của ngoại khoa Trung Hoa
Hình minh hoạ: Hoa Đà – được coi là ông tổ của ngoại khoa Trung Hoa

Tại Trung Quốc, từ đời nhà Chu (770 trước Công nguyên) đã có chế độ dùng thầy thuốc Dương y để trị các bệnh ngoại khoa như thủng dương, hội dương, kim dương, chiết dương…

Đời nhà Hán (khoảng năm thứ 9 ~ 23 trước Công nguyên), Vương Mãng giết đồ đệ là Địch Nghĩa rồi sai Thái y Thương Phương mổ xác để xem, đo đạc và ghi chép tạng phủ. Đây là lần mổ tử thi đầu tiên trong Đông y. Đến đời Tam Quốc (280 năm sau Công nguyên), Hoa Đà đã biết phẫu thuật và là người đầu tiên dùng thuốc mê mổ bụng. Hoa Đà cũng còn dự định mổ não cho Tào Tháo nữa. Đời nhà Tống (960 ~1249 sau Công nguyên, Đỗ Kỷ giết nhóm Âu Hy Phạm, mổ bụng 56 người, bảo thầy thuốc xem nội tạng và sai hoạ sĩ vẽ hình. Đời nhà Minh (1360 ~ 1644), Trần Thực Công soạn ra quyển ‘Ngoại Khoa Chính Tông (1617) tổng kết những thành tựu về ngoại khoa, nhất là ngoại khoa chấn thương.

Đại Cương

Ngoại khoa đời xưa gọi là ‘Dương Khoa’.

Tại Việt Nam, đời Vua Trần Duệ Tông (1372 ~ 1377) có Tuệ Tĩnh, trong bộ sách Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư và Nam Dược Thần Hiệu có bàn về các chuyên khoa,trong số 11 quyển, có một quyển bàn về Ngoại khoa. Tác giả trình bầy một cách đơn giản, thiết thực về y lý, chứng trạng, cách chữa của từng loại bệnh bằng các vị thuốc Nam công hiệu do bản thân tác giả và kinh nghiệm dân gian lưu truyền.

Đời Hậu Lê (1428 ~1789), Hải Thượng lãn Ông viết bộ Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh, cũng có bàn đến ngoại khoa.

Phạm vi chữa trị của ngoại khoa rất rộng. Cách chung, các bệnh thuộc phần ngoài cơ thể hoặc ở nội tạng nào phát sinh những chứng trạng cục bộ như đau, ngứa, sưng, phù, làm mủ thì phải dùng vị thuốc, dụng cụ, thủ thuật để trị ở ngoài hoặc ở bên trong như đinh nhọt, ung nhọt, tràng nhạc, bướu cổ, bệnh ở tai, mũi, họng, miệng lưỡi, mắt cho đến vết thương do binh khí, té ngã, chấn thương, trùng thú cắn… đều có thể gọi là Ngoại khoa. Tuy nhiên sau này, khuynh hướng đi sâu vào từng chuyên khoa nên đã tách nhiều loại bệnh thành từng chuyên khoa riêng như Mắt (Nhãn khoa), Tai (Nhĩ khoa), Họng (Hầu khoa)…

Bỏng cũng được coi là bệnh ngoại khoa

Bệnh ngoại khoa gồm những bệnh nhiễm khuẩn, bỏng, vết thương… Tổn thương thường ở các bộ phận bên ngoài nhưng có liên hệ mật thiết với tạng phủ, tân dịch bên trong. Nếu chức năng của tạng phủ không điều hòa, kinh lạc không thông, khí huyết không vận hành thì tác nhân gây bệnh mới xâm nhập vào cơ thể gây ra bệnh. vì vậy, ngoài việc điều trị tại chỗ, YHCT còn rất chú trọng đến việc điều chỉnh sự mất thăng bằng về âm dương, khí huyết và kinh lạc.





Tên gọi bệnh ngoại khoa theo Đông y là tuỳ thuộc vào hình thái như chứng Nham…., vị trí bệnh như Não thư, Phát bối…, màu sắc bệnh như Đơn độc, Bạch điến phong… vị trí huyệt như Nhân trung đinh, Uỷ trung độc, Hoàn khiêu thư. Theo tên tạng phủ như Phế ung, Can ung, Trường ung… Theo triệu chứng như Ma phong, Hoàng thuỷ sang… Theo đặc trưng của bệnh như lưu đờm, lưu chú… Theo phạm vi to nhỏ như nhọt nhỏ là Tiết, nhọt to là Ung, to hơn nữa là Phát… Theo tính lây lan như Dịch đinh, Đại đầu ôn, Thời độc…

Nguyên Nhân Gây bệnh

Nguyên nhân bệnh ngoại khoa có thể phân làm 6 loại như sau:

Ăn uống sinh hoạt không điều độ cũng là một trong những nguyên nhân gây bệnh ngoại khoa

Chẩn Bệnh Trong Ngoại Khoa

Việc chẩn đoán bệnh ngoại khoa cần dựa vào Tứ Chẩn mới có thể nhận diện đúng được Âm Dương, Biểu Lý, Hàn Nhiệt, Hư Thực và sự lành dữ của bệnh tình.

Vấn Chẩn

Ngoài những nội dung giống trong nội khoa, ngoại khoa có những đặc điểm riêng cần chú ý:

Vọng Chẩn

Hình minh họa: Vọng chẩn ngoại khoa đông y

Chủ yếu nhìn tinh thần, sắc thái, hình thái, chất bài tiết có những thay đổi bệnh lý.

Nhìn tinh thần

Tinh thần người bệnh tỉnh táo, lanh lợi là bệnh nhẹ, tiên lượng bệnh tốt; tinh thần ủ rũ, mệt mỏi, hoặc không tỉnh táo, lơ mơ hoặc bất tỉnh là bệnh nặng, tiên lượng dè dặt.

Nhìn sắc thái

Sắc mặt tái nhợt là chứng hư hàn hoặc huyết hư, sắc đỏ là chứng nhiệt, sắc vàng tươi là chứng thấp nhiệt, hoàng đản, sắc da vàng tái hoặc vàng sạm là chứng thiếu máu hoặc âm hoàng, sắc da tím sạm là chứng ứ huyết, thận hư hoặc hư hàn; sắc da xanh tím là phế khí ủng trệ hoặc khí huyết ứ trệ.

Nhìn vùng bị bệnh

Bệnh ngoại khoa thường biểu hiện triệu chứng trước tiên là ở nơi bị bệnh, xem xét sự thay đổi bệnh lý của nơi bị bệnh sẽ giúp dễ chẩn đoán

Ung nhọt

Sắc da đỏ thắm, bệnh thuộc nhiệt, dương chứng; Sắc da trắng hoặc không thay đổi thường thuộc hàn, âm chứng; Sắc da đen sạm, thường là dấu hiệu da thịt hoại tử; Sắc da xanh tím là huyết ứ. Tự nhiên mặt da lõm xuống, sắc da đỏ sạm là nhọt chuyển thành loét.

Lở loét (hội dương)

Sắc tím tối sạm, thường miệng loét khó liền, lâu khỏi; Nếu mặt loét gồ ghề nham nhở thường gặp là nhũ nham, ung thư da. Trường hợp loét vùng cẳng chân (bên trong hoặc bên ngoài) bờ cứng nhô ra như miệng bình có viền sắc đen hoặc chảy nước gọi là Liêm sang. Nếu là Nhục sang hay Tịch sang thường gặp ở người bệnh ốm nằm lâu ngày, loét ở vùng da tiếp xúc nhiều với chiếu, giường, vùng da bị chèn ép sinh loét do thiếu dinh dưỡng rất khó lành miệng.

Nhìn Hình Thái

Nhìn ngoại hình người bệnh có thể đoán biết một số bệnh. Hình thể tráng kiện, thể chất khoẻ tiên lượng tốt, bệnh chóng khỏi; Người gầy yếu, thể chất yếu, bệnh lâu khỏi. Người béo mập, bệnh phần lớn thuộc đờm thấp, người gầy ốm phần lớn thuộc hư nhiệt. Bệnh tật khác nhau thì hình thái cũng khác; nếu là nhọt ở đầu cổ thì gáy cứng, quay đầu khó khăn. Có nhọt sưng đau ở chân, chứng Hạc tất phong hoặc đau các khớp chân thì đi lại khó; bệnh Lao cột sống thì lưng gù; Chứng thoát thư đau nhiều nên thường ngồi ôm chân; Người mắc bệnh nhũ ung (áp xe vú) lúc đi tay hay đỡ vú, v.v… giúp ta chẩn đoán bệnh.

Nhìn Bì Chẩn

Đối với một số bệnh nổi ban chẩn ngoài da cần xem kỹ: Nếu ban chẩn đỏ là chứng nhiệt, sắc trắng thuộc phong hàn. Ban chẩn khô ngứa, tróc vảy là chứng phong táo. Da loét chảy nước vàng thuộc chứng thấp nhiệt. Ban chẩn đỏ ấn xuống lặn mất là chứng huyết nhiệt (giãn mạch), ấn không mất phần lớn là huyết nhiệt hoặc huyết ứ (chảy máu dưới da).

Nhìn Lưỡi

Quan sát lưỡi chẩn đoán bệnh

Văn Chẩn

Gồm có nghe âm thanh và ngửi mùi vị.

Thiết Chẩn

Sờ Nắn Vùng Bệnh

Bệnh ngoại khoa chủ yếu là bệnh có thể nhìn thấy được bên ngoài cơ thể cho nên không thể thiếu việc sờ nắn vùng có bệnh để chẩn đoán. Phép sờ nắn cần chú ý các mặt sau:

Bắt Mạch 

Cách bắt mạch ngoại khoa Đông Y

Cũng như bắt mạch trong nội khoa Đông y, ở đây chỉ giới thiệu một số mạch thường dùng trong ngoại khoa.

Tám loại mạch trên đây có thể đơn độc hoặc 2, 3 mạch cùng tồn tại. Các mạch Phù, Sác, Hoạt, Đại là mạch dương thường thuộc nhiệt chứng, thực chứng, dương chứng. Các mạch Trầm, Trì, Sáp, Tiểu là mạch âm, thường thuộc hàn chứng, hư chứng, âm chứng. Thông thường thì bệnh thuộc chứng nhiệt, chứng thực, chứng dương dễ trị, bệnh thuộc chứng hàn, chứng hư, chứng âm là khó trị.

Tùy vị trí bị tổn thương, người xưa đưa ra những hướng dẫn cho việc chẩn trị cụ thể như: Bệnh vùng đầu mặt thường do phong độc gây nên. Bệnh ở giữa cơ thể liên hệ đến khí uất. Bệnh ở phía trước cơ thể do thấp độc gây ra…

Về chẩn đoán

Ngoài việc tìm những triệu chứng bệnh toàn thân, việc khám xét tổn thương cục bộ cần đi đến tìm xem bệnh thuộc âm hoặc dương chứng.

Xét Theo Âm Dương

Cách chung: Dương chứng nhẹ mà dễ trị, Âm chứng nặng mà khó khỏi. Chứng bán âm bán dương và chứng Nham khó nhận biết được.

BẢNG SO SÁNH DƯƠNG CHỨNG VÀ ÂM CHỨNG

TÍNH CHẤT DƯƠNG CHỨNG ÂM CHỨNG
Mầu da  Nóng đỏ.  Không đổi, trắng, xanh tối.
Sưng  Sưng gồ lên. Bằng mặt da.
Phạm Vi  Sưng Tại chỗ. Lan tỏa.
Nhiệt độ  Nóng.  Không thay đổi hoặc mát.
Đau Ấn vào đau, không thích ấn.  Đau ít, đau ê ẩm, thích xoa bóp, thích ấm.
Mủ Đặc.  Lỏng
Độ Cứng  Vừa phải.  Rất cứng hoặc quá mềm.
Vị trí  Thường ở da thịt (phần biểu)  Ở sâu nơi gân xương (phần lý).
Tiên lượng  Dễ khỏi.  Lâu khỏi.

Bs. Hoàng Sầm

Nghiên cứu viên cao cấp

Viện Y Học Bản Địa Việt Nam

Doctor SAMAN

Nguồn website: yhocbandia.vn

TÀI TRỢ QUẢNG CÁO